Hỏi: Khi nhà đầu tư thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước về tạm ngừng, giãn tiến độ thì cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư có phải lập văn bản xác nhận cho nhà đầu tư không? Nếu nhà đầu tư không thông báo thì làm thế nào?

Hỏi: Khi nhà đầu tư thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước về tạm ngừng, giãn tiến độ thì cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư có phải lập văn bản xác nhận cho nhà đầu tư không? Nếu nhà đầu tư không thông báo thì làm thế nào?

Theo quy định tại Điều 65 của Luật Đầu tư, nhà đầu tư khi tạm ngừng dự án đầu tư phải thông báo với cơ quan nhà nước quản lý đầu tư để được xác nhận làm cơ sở cho việc xem xét miễn, giảm tiền thuê đất trong thời hạn tạm ngừng dự án;

Theo quy định tại Điều 67 Nghị định 108/2006/NĐ-CP, chậm nhất 15 ngày làm việc trước ngày tạm dừng dự án đầu tư, nhà đầu tư phải thông báo bằng văn bản với cơ quan nhà nước quản lý đầu tư về lý do và thời hạn tạm ngừng, giãn tiến độ thực hiện dự án.

Như vậy, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư phải ra văn bản xác nhận về thời hạn tạm ngừng dự án.

Nếu nhà đầu tư không thông báo việc tạm ngừng, giãn tiến độ thì trước hết không có cơ sở để áp dụng miễn, giảm tiền thuê đất trong thời hạn tạm ngừng dự án. Trường hợp quá 12 tháng không triển khai mà không có lý do chính đáng thì sẽ bị thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định tại Điều 64 của Luật Đầu tư và Điều 68 Nghị định 108/2006/NĐ-CP.

Tác giả bài viết: Thạc sĩ, Luật sư Phạm Quang Biên